Niềm tin và sự cống hiến vào Phật Giáo có quan trọng không?

Tháng Một 10, 2020
Thời gian đọc:

Câu hỏi: Kính bạch Ngài, trên con đường chứng ngộ Sự thật tối hậu, sự cống hiến tôn giáo và niềm tin vào Phật pháp có quan trọng không ạ? Điều đó quan trọng như thế nào? Và làm thế nào để nuôi dưỡng niềm tin và sự cống hiến cho Phật giáo?

“Nhiều người khi hiểu rồi mới hành, nhiều người nhờ hành thiện pháp rồi mới hiểu. Đối với nhóm chỉ hiểu thông qua thực hành, chúng tôi phải mở các trung tâm thiền và các khóa thiền. Đối với nhóm muốn tìm hiểu trước – thực hành sau, chúng tôi phải tổ chức các buổi học về Chơn Đế và các buổi trình Pháp. Cả hai nhóm đều thiết thực. Đây là để giải quyết bất tri cái tốt, bất tri cái đúng.

Ở trung tâm Thabarwa, chúng tôi nhấn mạnh việc hành thiền và thiện nguyện giúp đỡ người gặp khó khăn. Chúng ta sẽ nhận cái đã cho đi, nếu không cho đi thì không nhận được gì. Vì chia sẻ nơi trú xứ, vật thực, thuốc men,… và hỗ trợ người già, người bệnh, nhờ duyên lành đó mà chúng ta được nhiều đạo hữu trợ giúp và nhiều thí chủ cúng dường. Bên cạnh đó, chúng ta chia sẻ những hiểu biết, trải nghiệm về nhân – quả và Chơn Đế nên chúng ta ngày càng hiểu về Sự Thật trên. Bằng cách này sẽ giúp phát triển về thân và tâm. Cội nguồn của thiếu trí tuệ là do không chia sẻ cái ta hiểu và không thực hành thiện pháp, trong đó có giữ giới và hành thiền. Điều ta đang làm đây, ở trung tâm thiền này là cho tất cả nhân sanh, trong bất kì hoàn cảnh nào, ở bất cứ đâu, bất cứ thời điểm nào. Chúng ta không nên hiểu rằng hành thiền và hành thiện chỉ cần làm ở trung tâm thiền. Thiện pháp là phước báu dành cho tất cả, người có năng lực hay không có năng lực, hiểu hay chưa thực sự hiểu. Vì không biết về những điều này nên nhiều người không thực hành. Nếu hành thiện liên tục, chúng ta chắc chắn phát triển năng lực tâm, không những của chúng ta mà còn của những người xung quanh.

Để hiểu về Chơn Đế và giác ngộ, niềm tin và sự cống hiến tâm linh là cần thiết, không nên chối bỏ. Tôn giáo có thể nói là quyền lực lớn nhất trong mọi hình thức xã hội. Nếu ta không có niềm tin tôn giáo, ta không thể thấy sức mạnh của tôn giáo. Cần đeo đuổi tôn giáo nhưng nếu không thể xả li tôn giáo thì cũng không chứng ngộ được Sự Thật. Nếu chấp nhận tôn giáo thì có thể hiểu và sử dụng sức mạnh này. Ngoài ra, cũng cần hay biết về sự dính mắc vào tôn giáo của mình để có thể xả li khỏi điều đó. Nếu không hiểu biết về tôn giáo, ta không thể thực hành Pháp. Nếu không trải nghiệm hạnh xả li, chúng ta cũng không thể giúp người khác thực hành được. Với dính mắc, ta không thể chứng nghiệm Sự Thật và rồi không thể đặt trọn niềm tin vào tôn giáo. Nhờ có tôn giáo mà ta có được những kiến thức nền móng về sự thật, nhưng nếu không xả li khỏi tôn giáo, ta sẽ không có những trải nghiệm thực chứng tự thân.

Tôn giáo là phương tiện mà ta nên thử chỉ-sử-dụng-mà-thôi, bằng sự rõ biết về tham-sân-si của chính ta trong hiện tại. Ta cần luôn biết sửa lỗi sai của mình. Ta phải dám buông bỏ tà kiến, thân kiến. Phải có năng lực hòa mình vào Tự nhiên hay là Sự Thật. Tâm chấp nhận có ai đó, có cái gì đó, tại nơi chốn này, tại thời điểm kia là nguyên căn của dính mắc và vô minh. Bởi vì tất cả điều trên đều không thật; chỉ-sử-dụng-mà-thôi. Chúng ta cần tin vào những người phụng sự tôn giáo, nơi chốn phụng sự tôn giáo, giáo lí. Đừng chối bỏ, cần có niềm tin; nhưng đừng dính mắc, cần chánh niệm từng hành vi thiện pháp. Càng ưu tiên thực hành thiện pháp trong từng khoảnh khắc, chúng ta càng bớt dính mắc vào người khác. Tin tưởng vào pháp thiện bao gồm giữ giới và hành thiền là cách tốt nhất chúng ta có thể làm. Đây là con đường để sử dụng niềm tin một cách đúng đắn.”

Người đóng góp: